Luận Phật bảo
(Tham khảo các phẩm: Duyên khởi, Thập lực, Tứ vô uý, Thập hiệu, Tam bất hộ)
Đề cương: bài giảng môn luận Thành Thật
Giảng viên: TT. Thích Giác Hiệp
Bài giảng tại:
Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh
Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội
Lớp Cao Đẳng Chuyên khoa TP. Hồ Chí Minh
(Khoa Triết Học Phật Giáo, HVPGVN tại TP.HCM)
I. Đại ý
II. Nội dung
A. Phật thân
1. Pháp thân
2. Báo thân
3. Ứng thân
B. Phật hiệu
C. Công đức của Phật
III. Kết luận
I. Đại ý:
Công đức của Phật/Pháp thân Phật, như: giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Phật được xưng tán như: là bậc chính trí, nhất thiết trí, Đại sư lợi thế gian.
Đức Phật thành tựu/đạt được mười lực, có được 10 lực này nên gọi là trí tuệ đầy đủ. 10 lực này bao gồm cả trí đức và Đoạn đức. Từ lực thứ 1 cho đến thứ 9 (từ Xứ phi xứ trí lực….Túc trú sinh tử trí lực) thuộc về Trí đức, còn lực thứ 10 (Lậu tận trí lực) là Đoạn đức.
Đức Phật thành tựu được 4 món vô sở uý. Đức Phật thành tựu đa văn, thấu suốt nghĩa lý, đoạn trừ tất cả các phiền não, thuyết pháp uy lực khiến kẻ trí, ngoại đạo không thể phá hoại được.
Đức Phật được tôn xưng với 10 danh hiệu khác nhau. Những danh hiệu này chỉ cho công đức và sự đoạn tận lậu hoặc, chứng đạt được giác ngộ của Phật.
Ba nghiệp của Phật thường thanh tịnh một cách tự nhiên, luôn đem lại lợi ích cho người. Ba nghiệp không bị dao động trước thuận, nghịch.
II. Nội dung:
A. PHẬT THÂN
1. Khái niệm về Phật thân theo Nguyên thuỷ
Nguyên Thủy chủ trương đức Phật là một con người nhưng đã chứng đạt được giác ngộ.
Phật còn sắc thân ngũ uẩn nên chịu tác động của các pháp, thế nhưng sự cảm nhận của Phật có khác với người thường.
2. Khái niệm về Phật thân tiền Đại thừa và Đại thừa
Chúng ta có thể nói Đại thừa Phật giáo dựa vào sự phát triển khái niệm Phật thân của Nhất thiết hữu bộ. Khái niệm về Phật thân của Nhất Thiết Hữu bộ không thay đổi nhiều so với khái niệm Phật thân Nguyên Thuỷ.
Pháp thân theo Thành Thật luận, giống với Nhất Thiết Hữu bộ, được hình thành là do: giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Hơn thế nữa, ngài Ha-lê-bạt–ma chủ trương Pháp thân của Phật bao gồm chẳng những năm công đức trên mà còn bao gồm thập lực, tứ vô sở uý…những đức tính này chỉ Phật đạt được A-la-hán không thể đạt được.
3. Ba thân
a. Pháp thân (Dharmakāya):
Pháp thân còn gọi là:
– Phật pháp
– Pháp tính thân
– Tự tính thân
– Như như Phật
– Thật Phật
– Đệ nhất thân.
Chư Phật chứng được tự tính thân. Thân này vô danh vô tướng, phi sắc phi tâm. Không thể dùng thức để nhận biết được. Pháp thân của Phật đối với thời gian vô thỉ cũng như vô chung, đối với không gian biến khắp các nơi, cũng là giác tinh vô cùng vô hạn. Thân này là nguồn gốc của vạn pháp, bản mạng của chúng sinh. Pháp thân có nhiều thuyết như: 2 loại Pháp thân, 3 loại Pháp thân, 4 loại Pháp thân, 5 loại Pháp thân, lại có Pháp thân hữu tướng Pháp thân vô tướng.
Pháp thân chia ra làm hai:
1) Giáo Pháp thân: Chỉ cho những lời dạy của đức Phật.
2) Ngũ pháp Pháp thân: Pháp thân này đầy đủ các pháp công đức, lấy công đức làm thân, nên gọi là pháp thân. Thân công đức, gồm 5 phần, còn gọi là công đức tự thân và công đức bản thể. Năm công đức Pháp thân đó là: giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến pháp thân.
b. Báo thân (Sambhogakāya):
Báo thân còn gọi là:
– Báo Phật
– Báo thân Phật
– Thọ dụng thân
– Thọ pháp lạc Phật
– Thọ lạc Báo Phật
– Thực Thân, Đệ nhị thân.
Báo thân lấy Đại tuệ, Đại định, Đại bi làm thể, đầy đủ vô lượng sắc tướng, công đức, lạc tướng. Tịnh độ của Phật cũng lấy báo thân để thành lập. Bồ tát ở tịnh độ thọ pháp lạc cũng lấy Báo thân này làm nhân.
Báo thân là thân quả báo. Quả báo ở đây là phúc đức, trí tuệ trang nghiêm, thân kim cương bất hoại, đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Báo thân Phật là do tu hành thiện pháp mà thành tựu. Nói cách khác do tu Lục độ, Tứ nhiếp pháp, Tứ vô lượng tâm mà thành tựu đầy đủ phúc báo trang nghiêm, làm cơ sở cho chúng sinh quy ngưỡng, cung kính cúng dường, để thành tựu quả phúc điền.
c. Ứng Hoá thân (Nirmāṇakāya):
Ứng thân còn gọi là:
– Ứng Phật
– Ứng thân Phật
– Ứng thân Như lai
– Ứng hoá thân
– Ứng hoá pháp thân.
Đây là hiện thân của đức Phật lịch sử, ngài thị hiện ra đời để cứu độ chúng sinh, tuỳ theo căn cơ của chúng sinh mà ngài hiển hiện nhiều nhân cách. Như đức Phật Thích ca.
B.Phật hiệu:
I. Giải thích Thập hiệu:
Theo ý nghĩa nguyên thuỷ, những danh hiệu này chỉ cho bất cứ hành giả nào tu tập đã loại trừ phiền não, nhận chân được thật tướng của các pháp, vượt trên mọi khổ đau. Những danh hiệu này cho chúng ta thấy được những đức tính và năng lực của Phật. Không những Phật giáo sử dụng các thuật ngữ này mà ngoại đạo cũng sử dụng một số danh xưng này để chỉ cho những thánh nhân của họ. Thập hiệu theo luận Thành Thật:
謂如來。應供。正遍知。明行足。善逝。世間解。無上。調御。天人師。佛世尊。(Đ.32.242.1)
1. Như lai: (tathāgata)
Luận Thành Thật nêu:
如來者乘如實道來成正覺故曰如來。有所言說皆實不虛。(Đ.32.242.1).
2. Ứng cúng (arhan)
Đáng được tôn kính, cúng dường. Đức Phật là người đầy đủ cả 2 phương diện phước đức và trí tuệ, trang nghiêm, là phước điền của chúng sinh và thế gian, nên đáng nhận sự cúng dường của trời người.
3. Chính biến tri (samyaksambuddha)
正 遍 知 còn gọi là:
三 藐 三 佛 陀 tam-miệu tam-phật-đà
正 等 覺chính đẳng giác
等 正 覺đẳng chính giác
Từ này có ý nghĩa tương đương với từ Phật. Cả 2 từ đều chỉ cho sự giác ngộ. Chỉ cho một bậc thấy, biết các pháp một cách chân chính.
4. Minh hạnh túc (vidyācaraṇasampanna):
Danh xưng này chỉ cho sự hoàn thiện về trí tuệ và đức hạnh.
1) Về trí tuệ: Đầy đủ các trí, diệt trừ vô minh. Phật biết những việc cần nên biết.
2) Về đức hạnh: Giải thoát tự thân và giáo hoá chúng sinh diệt trừ phiền não, thoát khỏi khổ đau sinh tử.
5. Thiện thệ (sugata): Khéo sử dụng nhất thiết trí làm phương tiện vận chuyển các pháp, tu tập Bát chính đạo, đoạn trừ phiền não, giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu chứng quả niết bàn. Hay còn có nghĩa là người đã đi trên con đường thiện.
6. Thế gian giải (lokavid): đề cập đến trí tuệ Phật. Thấy rõ được sự tướng của hữu tình, và vô tình chúng sinh. Biết rõ căn cơ trình độ, sự hiểu biết của chúng sinh và sự sinh hoạt của thế gian.
7. Vô thượng (anuttaraḥ)
Đấng tối cao không ai bằng. Đối với pháp niết bàn Phật là vô thượng, đối với tất cả chúng sinh Phật là vô thượng.
8. Điều ngự (puruṣadamyasārathin)
Người đã điều phục chế ngự được mình và người. Tuỳ theo đối tượng, tuỳ theo hoàn cảnh, trường hợp đức Phật giáo hoá khác nhau. Khi thì dùng lời nói nhu hoà, khi thì dùng lời nói cứng rắn, khi thì dùng lời nói bình thường. Cũng giống như người khéo huấn luyện một con ngựa và khéo điều khiển một chiếc xe.
9. Thiên nhân sư (śāstā devamanuṣyānām) Diễn tả Phật như một bậc thầy, người chỉ đường giáo hoá nhân thiên. Như vậy Phật là thầy của trời người, cha lành bốn loài, đạo sư của 3 cõi.
10. Phật Thế tôn (buddha bhagavat): Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính. Đây chỉ cho quả vị, bậc đã giác ngộ, người tỉnh thức, người biết như thật. Đức Phật là đấng đã giác ngộ hoàn toàn, đầy đủ ba đức, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Tất cả các công đức trên đầy đủ, là đấng cao cả trong 3 đời, 10 phương thế giới nên gọi là thế tôn.
C. Công đức:
1. Năm loại công đức:
a. Giới đầy đủ:
Phật từ lâu tu tập tâm đại bi nên tâm ác không phát sinh. Phật bảo Anan nếu có người tu tập lòng từ từ lúc nhỏ thì lòng ác có thể sinh khởi được không? Anan trả lời rằng không. Đức Phật nhiều đời tích tập tính thiện. Không phải vì tiến khen chê mới giữ cấm giới. Đức Phật đã nhổ tận gốc tam độc.
b. Định đầy đủ:
Thiền đinh của Phật kiên định không gì có thể lay chuyển. Thiền định này được thành tựa là do tu tập từ nhiều kiếp. Đức Phật thành tựu định này không cần trợ duyên, người hoặc xứ hoặc pháp. Người thường cần nhờ những loại này mới có thể thành tựu được định. Định của Phật có được một cách tự nhiên không cần gắng tâm, nhọc sức,佛入禪定不加心力 , lúc nào Phật cũng ở trong trạng thái thiền định如來常在三昧.
c. Tuệ Đầy đủ:
Có 2 loại vô minh一障禪定。二起煩惱 Như lai đều dứt trừ tất cả. Chính nhờ tuệ mà Phật có thể: 巧於言辭。善知義趣。辯才無竭。Ngôn từ của Phật phát ra không bao giờ sai lầm. Trí tuệ thù thắng nên oai nghi cũng thù thắng.
d. Giải thoát đầy đủ:
Tức giải thoát hoàn toàn. Có nghĩa là đạt được sự tự do, tự tại và thoát khỏi tất cả những ràng buộc, không còn vô minh, tham ái chi phối. Vô minh (avidyā) là nguồn gốc của sự ràng buộc, và khổ đau. Như do vô minh, kém hiểu biết nên tạo ra nhiều sự ràng buộc, khổ đau. Nhờ trí tuệ đoạn trừ vô minh. Không còn vô minh thì khổ đau và ràng buộc cũng không còn nữa và có được sự giải thoát.
e. Giải thoát tri kiến đầy đủ:
Phật biết rõ đạo lý của sự giải thoát. Biết rõ thâm tâm của chúng sinh ưa nghĩ những gì, Phật tuỳ theo đó thuyết pháp. Đức Phật biết thời cơ, biết các pháp sai khác cho nên tuỳ theo lúc, tuỳ theo người Phật thuyết pháp khác nhau. Ngài khéo đem phương tiện dứt trừ lỗi lầm của chúng sinh.
2. Thập lực:
Lực là thể của trí, nó không bị bất cứ pháp nào lay chuyển. Đối với tất cả mọi việc Phật đều biết một cách rõ ràng, tự tại không bị ngăn ngại. Vì Phật đã dứt sạch mọi tập khí phiền não nên đối với điều gì Phật muốn biết là biết rõ. Do đó gọi là lực. 10 lực lấy 10 trí làm thể.
(Tham khảo Câu-xá: 1. Xứ phi xứ lực, 2. Nghiệp báo lực, 3. Tịnh lự giải thoát đẳng lực, 4. Căn thượng hạ lực, 5. Chủng chủng thắng giải lực, 6. Chủng chủng giới lực, 7. Biến thủ hành lực, 8. Túc trú tuỳ niệm lực, 9. Túc trú sinh tử lực, 10. Lậu tận lực.)
3. Tứ Vô úy
Tứ vô sở uý còn gọi là Tứ vô uý. Tâm giáo hoá người mà không khiếp sợ gọi là vô uý (化 他 之 心 不 怯 名 無 畏)
a. 一切智無所畏: Đức Phật chứng đạt Nhất thiết trí nên đối với tất cả việc đều thấu suốt. Tất cả kinh thư, luận nghị đức Phật đều thông đạt, vấn đáp rõ ràng, nên không có sợ hãi. Người thường kém về giới đức, đa văn, trí tuệ nên thường bị đời chê bai.
Phật có đầy đủ 4 loại sau nên không ai có thể thắng được, kể cả chư thiên và loài người:
一者住於正報。二者受因非因。三者能受 譬喻。四者住論法中。(Đ.32.241.2)
b. 一切漏盡無所畏: Đức Phật đã đoạn trừ tất cả phiền não, không còn bị chúng chi phối nữa.
c. 能說障道無所畏: Phật thuyết pháp tựa như uy lực của sư tử trước các loài thú. Phật thuyết pháp dựa trên thế đế và đệ nhất nghĩa đế. Kẻ trí không thể phá hoại được còn đối với phàm phu vô trí thì Phật không tranh cãi với họ.
d. 盡苦道無所畏: chứng đạt đầy đủ đạo xuất thế, diệt trừ mọi khổ não. Tức tuyên thuyết đạo xuất ly không sợ hãi.
4. Tam bất hộ:
又佛心堅固猶如大地。去重不高。若置重物亦復不下。(Đ.32.243.1)
Phật luôn an trụ trong chánh niệm, chánh tri. (1) Khi duyên cảnh thuận không sinh tâm hoan hỷ. (2) Khi duyên cảnh nghịch không sinh tâm lo buồn. (3) Khi duyên cảnh không thuận nghịch không sinh tâm hoan hỷ và lo buồn. Ba niệm trụ này đều lấy niệm và tuệ làm thể. Đây thuộc xứ phi xứ trí lực
III. Kết luận:
– Phật có đầy đủ các loại trí, vượt khỏi giới hạn của lý luận, của khoa học, triết họcà Đại trí
– Phật có tình thường tròn đầy, không phân biệt thân sơà Đại bi
– Phật có khả năng quyền biến trong độ sinh
– Lời dạy của Ngài liên quan đến cuộc sống thực tiễn
TT. Thích Giác Hiệp