Ảnh: GH Cánh đồng cải, Cộng hoà Séc 2009
Chùa Sơn ở thôn Sơn Đồng, có tên chữ là Tư Phúc tự, thuộc xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, cách thị trấn Quỳnh Phụ chừng 3 km về phía Tây bắc. Chùa nằm ở mé làng, trên một khu đất cao, thoáng mát. Phía trước có sân chùa và ao chùa; phía sau có vườn cây và khu mộ tháp của chùa. Ngôi chùa hiện tại chỉ là một tòa ba gian với một gian hậu, làm thành kiểu chuôi vồ. Theo lời kể của dân làng thì ngôi chùa này trước đây khá quy mô: có gác chuông, nhà tổ, nhà tăng, phòng oản với hơn một mẫu ruộng hương hỏa. Lễ hội hàng năm thu hút hàng trăm Phật tử, hàng ngàn du khách thập phương. Trải năm tháng, chùa bị hư hỏng nhiều, nhưng cũng đã được tu bổ gìn giữ, và trong những năm gần đây được Nhà nước quyết định xếp hạng di tích lích sử. Trong sân chùa hiện có 3 bia đá (mới được thu nhặt về) trong đó có 2 bia thời Lê ghi việc sửa chữa chùa và sắc chỉ của chúa Trịnh miễn phu phen tạp dịch cho dân làng để lo việc cúng Phật; một bia thời Mạc, dựng năm Diên Thành 7 (1584), ghi việc tạc một pho tượng Di Đà độc tôn của chùa. Trong chùa, Phật điện mới được tu bổ khá uy nghiêm. Quả chuông đồng treo ở gian bên trái chùa. Sở dĩ quả chuông này còn lại đến ngày nay là bởi nhiềulần trong những lúcloạn li, thăng trầm của lịch sử nó đã được dân làng thả xuống giếng sâu.
Chuông cao 1,05 m (thân cao 0,8 m, quai chuông cao 0,25m). Đường kính miệng 0,60m. Quai chuông là hai hình rồng đấu lưng vào nhau. ở giữa đỉnh quai chuông, được gắn thêm hình nậm rượu. Thân chuông chia làm 4 múi theo chiều dọc. Mỗi múi lại chia làm 2 khoang theo chiều ngang. Khoang trên lớn khoang dưới nhỏ. Ngăn cách các múi và các khoang là những gò nổi. Phần giáp ranh 4 múi và bốn khoang dưới là 4 múi tròn. Bốn múi này tượng trưng cho 4 hướng: đông, tây, nam, bắc. Ngoài ra, còn 2 núm khác dùng để thỉnh chuông, nằm ở phía trên các múi này, đối xứng nhau. Miệng chuông hơi loe, khắc nổi hình cách sen kép, liên tiếp. Tên chuông gồm 12 chữ: “Quỳnh Côi huyện, Sơn Đồng xã, Tự Phúc tự, tạo hồng chung”chia đều trên 4 múi, được khắc chìm, nét chữ khá to. Văn bản được viết băgng chữ Hán gồm lời tựa, bài minh, phần lạc khoản và phần kể tên người công đức; cả thảy khoảng 1800 chữ, được khác kín trên thân chuông. Dòng lạc khoản cho biết chính xác chuông được đúc vào ngày 17, tháng tư năm Quảng Hòa 4 (1545). Đây là một trong số ít chuông Đồng có niên địa sớm hiện còn ở nước ta sau chuông Thanh Mai (Hà Tây) thế kỷ VIII và hai, ba quả chuông thời Trần khác. Phần lớn số chuông hiện có ở các chùa làng Việt Nam đều được đúc vào thời Tây Sơn và thời Nguyễn.
Đặc điểm nổi bật về hình thức quả chuông thời Mạc này là ở đỉnh quai chuông có hình nậm rươu, 6 núm chuông được phân rõ chức năng để gõ và để chỉ biểu trưng khác, vành chuông có hình cánh sen kép. Tên chuông gồm nhiều chữ được khắc chìm. Đặc điểm này còn bắt gặp ở một số quả chuông thời Lê khác như chuông chùa Đồng Sâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, đúc năm Hoàng Định 8 (1608), chuông chùa thôn Phúc Lai xã Phú Xuân, thị xã Thái Bình đúc vào niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705 – 1719) và một vài quả chuông đúc vào niên hiệu Chính Hòa (1680 – 1705), Cảnh Hưng (1740 – 1786) khác. Đặc điểm trên hầu như đã vắng bóng trên chuông thời Tây Sơn và thời Nguyễn về sau.
Văn bản khắc trên chuông thời Mạc này do Huấn đạo phủ Tân Hưng là Phạm Hộc Lạc Thiện soạn. Phần kể tên người công đức do Biên ký (thứ ký) Nguyễn Công Tích và Nguyễn Hoa ghi chép với sự trụ trì của sư chùa Trí Chân Tì khâu.
Việc phát hiện quả chuông thời Mạc này, góp thêm một di vật quý trong sưu tập chuông cổ của nước ta hiện còn rất ít ỏi. Văn bản trên chuông là nguồn tư liệu quý giá. Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu phân tích mà chỉ muốn giới thiệu toàn bộ văn bản để cung cấp cho độc giả và các nhà nghiên cứu tham khảo và sử dụng.
Sau đây là phần phiên âm và dịch nghĩa (có lược bớt một số tên người công đức) bài văn khắc trên chuông.
Phiên âm: Quỳnh Côi huyện Sơn Đồng xã Tư Phúc tự tạo hồng chung.
Sơn Đồng xã Tư Phúc tự chung tự.
Chung bát âm, kim thuộc nhạc khí chi địa dã. Tự đại Hùng thị xuất thế dĩ vi pháp âm, minh lục thời nhi cảnh tứ chúng yên. Việt hữu Tư Phúc tự Sơn Đồng chi địa phúc điền dã. Cổ chi nhân diệc hữu vân sơn thạch tả địa tài nhi tạo chi giả, hữu phát dẫn tiền, chú vi hồng chung. Kỳ gian lập sổ xích chi thạch, thuyên vô cùng chi công, tức Tư Phúc tự bi dã. Bi vĩnh vi minh lâu chi truyền, tự diệc tác danh lam chi đại; kế thị dĩ lũy nhị bách dư niên. Tư bi tư đức, đọc chí kim hữu cổ tự, cổ chung cơ tùy kiếp hóa, đại hóa, đồ tân, vong phế cụ cử. Bản thôn lão thái, đại tiểu đẳng công xuất gia tư trùng cấu kỳ tự nhi tân chi. Đăng ngạn giả đắc dĩ dục y, khất linh giả mạc bất quả (…)(1) vi công đức chi lâm, sở khiếm giả chung nhĩ. Đại sĩ Nguyễn Dự, Phạm Hoan, Phạm Hợp đẳng phát tứ vô lượng tâm. Quảng Hòa tứ niên tứ nguyệt thập thất nhật, bản hương quan viên đại tiểu đăng cập bản huyện cá xã thái ông lão bà, thiện nam tín nữ tập đàn việt, quyên cốc thời, tụ trung hợp triệu Đâu thị phạn thiên địa chi lư, phiến âm dương chi thán. Kim công hiến xảo, hỏa cung (…)(2) . Bất nhật nhi hồn chung cáo thành. Đãi thực thị niên bát nguyệt thập bát nhật Giáp Thân dã, tức nhi quan chi, trung thế li hư, ngoại mô càn tượng; ngưng phù chất hữu kim chi kiên, đại kỳ thanh như ngọc chi chấn. Cổ chi quý âm, phi đồ văn ư kỳ nhĩ, nhi diệc mục kiến chi tường. Khấu dư minh văn dĩ thọ bất hủ. Dư viết: thiên đạo mặc nhiên tự vận. Cố đãi lôi nhi phát (…)(3) pháp huyền dĩ (…)(4) . Suy hữu chung nhi cảnh tứ chúng. Kỳ vi thanh tuy bất đồng nhi cảm phát nhân vật sơ vị thường dị. Tư chung chi tạo vân hồ tại? Sở dĩ chương thiên thanh, tuyên tượng giáo nhi vi đại pháp khí dã. Tưởng kỳ tuân cự giao giang minh lao dật hống. Sương sơ (…) bồi hồi lực hư, nguyệt hậu hâm hâm thấu triệt vạn hữu. Thính chi giả hưng khuyến thiện trừng ác chi đoan, văn chi giả động trung quân ái thân chi niệm. Tương sử nhất hơn hàm hựu lợi lạc chi thiên đồng quy bình an chi địa. Tác tư chung dã, phi đồ tỉnh ư Thích giáo, thực hữu văn ư thế giáo dã, nhi đại sĩ cập bản thôn tác thiện chi tâm, hiếu thí chi báo, ninh khả lượng hồ; chí hỉ thiện duyên. Vô dĩ đẳng thùy chi vô cùng, mạc như minh. Minh viết:
Nhược tích cổ nhan hề, Dụng khai gia tư;
Toạ Tư Phúc tự hề, lập công đức bi.
Cổ chung kiếp hóa hề, Khắc văn do thùy.
Cổ tự (…) cửu hề, ốc tài tiệm trụy.
Đương hươnglão thiếu hề, Diệc phát đại từ.
Lạc chủng thiện duyên hề, Trung cấu chiêu đề.
Chú (…)(5) hồng chung hề, Minh vụ lục thời.
Đỗ đa tục lự hề, Bài khước tâm cơ.
Nhân vật hàm phát hề, lợi tế phổ thi.
Pháp âm trường bá hề, Pháp khí gia trì.
Đại tuyên tượng giáo hề, Đại dáng hồng hi.
Trùng sơn Đồng bảo hề, Khinh thạch anh kỳ.
Đỉnh xuất thế Phật hề, Quảng tích đức cơ.
Y bát địa thụ hề, Hương hỏa duyên nghi.
Tùy minh dáng vũ hề, hữu thu dự kỳ.
Vô đẳng công đức hề, Bất khả tư nghị.
Thời.
Quảng Hòa vạn vạn niên chi tứ, Giáp Thìn quý thu chi cát. Tân Hưng phủ Nho học Huấn đạo Phạm Hộc LạcThiên soạn.
– Biên ký Nguyễn Công Tích, Nguyễn Hoa.
– Gia trì pháp sự pháp tính Tì khâu, Trí Chân Tì khâu. Thiện Thi huyện, Anh Nhuệ xã Thượng Bảo Giám san,Thư cục Cục phó Vũ Đạo san.
– Tín chủ Sơn Đồng thôn đại sĩ tính các xã đại sĩ: Nguyễn Cửu Thái (…)(6) .
– Bảo thôn tín thí (…)(7) .
– Tín thí bản huyện các xã (…)(8) .
Dịch nghĩa: Tạo chuông lớn chùa Tư Phúc, xã Sơn Đồng, huyện Quỳnh Côi.
Lời tựa khắc trên chuông chùa Tư Phúc xã Sơn Đồng.
Chuông là một nhạc khí lớn thuộc “kim” trong bát âm(9) . Từ khi Phật xuất thứ, đã lấy chuông làm Pháp âm; khua vang sáu thời(10) , cảnh tỉnh tứ chúng(11) . Ngày trước, chùa Tư Phúc là một đại phúc điền của xã Sơn Đồng. Người xưa đã chuyển đá núi, góp tài vật mà dựng lên ngôi chùa này. Lại bỏ tiền của đúc quả chuông đồng. Khi ấy đã dựng bia đá cao vài thước, khắc ghi công đức, để truyền dài lâu. Đó chính là bia chùa Tư Phúc vậy. Bia mãi mãi trường tồn. Chùa cũng thành danhlam, kế nối hơn 200 năm. Bia này, công đức này vẫn còn đến nay. Tuy nhiên chùa cổ, chuông cổ cùng theo vòng sinh hóa: mới rồi cũ, phế lại hưng. Nay già trẻ lớn bé trong thôn nhà bỏ tiền của trùng tu chùa làm cho mới thêm, khiến người đến bờ giác có chốn quy y; người cầu linh nghiệm đều được ứng đáp. Mọi người thường lấy đó là nơi vun trồng công đức. Duy còn thiếu chuông đồng. Nay các đại sĩ Nguyễn Dự, Phạm Hoan, Phạm Hợp cùng phát lòng vô lượng, vào ngày 17 tháng tư năm Quảng Hòa 4 (1545), hương lão quan viên trên dưới cùng thiện nam tín nữ, thái ông lão bà của các xã trong huyện mở hội bố thí, bấm chọn giờ lành, mời thợ, mở lò càn khôn, quạt lửa âm dương. Thợ đúc trổ khéo, lửa lò ra uy. Chẳng mấy mà chuông lớn đã thành. Đó là ngày 18 Giáp Thân, tháng 8 năm nay. Nhìn chuông: trong là hình quẻ li(12) trống rỗng, ngoài thì giống hình quẻ càn(13) rắn rỏi. Chất ngưng kết, cứng tựa vàng. Tiếng chuông lớn vang như ngọc. Quả là những âm thanh quí xưa nay. Không chỉ cốt nghe thấy bên tai mà còn muốn nhìn tận mắt, nên đã nhờ tôi làm bài văn khắc lên chuong để lưu truyền dài lâu. Tôi thưa rằng: Đạo trời xoay vần tự nhiên. Xưa phải đợi tiếng sấm mà tỏ rõ lẽ huyền diệu của giáo pháp. Nay có tiếng chuông, cảnh tỉnh chúng sinh. Hai âm thanh tuy không giống nhau, nhưng tác dụng cảm phát con người và sinh vật xưa nay không hề khác lạ. Bởi vậy, việc tạo đúc chuông là để ngân lên tiếng vang của trời, là thứ pháp khí lớn vậy. Ngẫm xem: tre gác chéo treo cao, chày kình thong dong buông tiếng. Trong sương sớm ngân nga vang xa sáu cõi, lúc trăng tàn lảnh lót thấu triệt muôn loài. Người nghe thấy tiếng chuông, dấy niềm khuyến thiện trừng ác; kẻ thấu được tiếng chuông, sinh lòng trung quân, hiếu đễ, khiến cho cả hương ấp vui vầy trong cõi lợi lạc, cùng quy về chốn bình an. Như thế, chuông này chẳng phải chỉ giúp ích đạo Phật mà còn mở mang thế giáo nữa. Do vậy, công đức của các vị Đại sĩ cùng dân bản thôn đua nhau phát lòng lành, ham làm việc bố thí, há có thể lường hết được sao? Lớn lao thay, thiện duyên! Để lưu truyền mãi mãi chẳng gì bằng làm bài minh. Minh rằng:
Cổ nhân đời trước chừ, Cung tiến gia tư.
Tạo chùa Thiên Phúc chừ, Dựng bia công đức.
Chuông xưa đã mất chừ, Bài văn hiện còn.
Chùa vốn đã lâu chừ, Mái xà hư hỏng.
Trẻ già trong làng chừ, Phát lòng từ thiện.
Vui trồng thiện duyên chừ, Tu sửa chùa Phật.
Đúc lại chuông lớn chừ, Vang trong sáu cõi.
Dứt nỗi trần tục chừ, Bỏ mối lo toan.
Ngưòi vật phấn phát chừ, Lợi lộc tự về.
Pháp âm truyền xa chừ, Pháp khí duy trì.
Phát huy Phật giáo chừ, Ban giáng phúc lành.
Của báu Sơn Đồng chừ, Tu tích nền nhân.
Nối truyền y bát chừ, Khói nhang tuần tiết.
Thỉnh cầu mưa chừ, báo mùa tươi tốt.
Công đức vô lường chừ, Khôn bề tả xiết.
Ngày lành tháng cuối thu năm Giáp Thìn(14) niên hiệu Quảng Hòa (1545), Huấn đạo Phạm Hộc Lạc Thiện, Nho học phủ Tân Hưng soạn.
– Biên ký: Nguyễn Công Tích, Nguyễn Hoa.
– Gia trì Pháp sự Pháp Tính Tì khâu, Tri Chân Tì khâu.
Thượng bảo Giám người xã Anh Nhuệ, huyện Thiên Thi và Vũ Đạo, Cục phó thư cục khắc chữ.
– Tín chủ của đại sĩ thôn Sơn Đồng và đại sĩ các xã: Nguyễn Dữ, Phạm Cựu (lược tên 72 vị nam).
– Bản thôn tín thí: Phạm Thị Dần, Nguyễn Thị Huyền (lược tên 16 vị nữ).
Giáp Tây Nam: Nguyễn Văn Hoán, Nguyễn Khuyến (lược tên 29 vị nam).
Giáp Chính Đông: Nguyễn Đức Nhiên, Nguyễn Đồng Trụ (lược tên 24 vị nam).
Giáp Tây Bắc: Phạm Hiệp, Bùi Tử Mai (lược tên 28 vị nam).
Giáp Đông Nam: Nguyễn Vĩnh Thọ (lược tên 20 vị nam).
Giáp Đông Bắc: Nguyễn Văn Mai (lược tên 15 vị nam).
– Các xã trong huyện tín thí:
Trịnh Công Lộ, Trịnh Nghĩa (lược tên 160 vị).
CHÚ THÍCH
(1) Có 3 chữ không đọc được.
(2) 1 chữ bị mờ.
(3) 2 chữ bị mờ.
(4) 6 chữ bị mờ.
(5) 1 chữ bị mờ.
(6) Lược bớt.
(7) Lược bớt.
(8) Lược bớt.
(9) Bát âm: là 8 thứ nhạc cụ: “Kim, thạch, thổ, cách, ti, mộc, bào và trúc”. Chu Lễ giải thích: “Kim” tức chuông.
(10) Sáu thời: Phật pháp chia 1 ngày 1 đêm thành 6 thời: Thần, triêu, nhật, trung, nhật mộ (ban ngày), sơ dạ, trung dạ, hậu dạ. (ban đêm)
(11) Tứ chúng: Bốn loại chúng sinh, chỉ chúng sinh.
(12) Li: Là tên gọi quẻ trong Kinh Dịch.
(13) Càn: Là tên gọi quẻ trong Kinh Dịch.
(14) Giáp Thìn là năm 1544.
ĐINH KHẮC THUÂN (Tạp chí Hán Nôm, số 3 (20), 1994)