Chùa Vĩnh Nghiêm là một đại danh lam cổ tự, một Thiền viện – Trung tâm đào tạo tăng đồ trong suốt thời gian gần tám thế kỷ hình thành và phát triển của Phật phái Trúc Lâm Yên Tử.

Chùa được dân gian quen gọi là chùa La, hay Đức La vì toàn bộ công trình kiến trúc tọa lạc trên một gò đồi nhỏ của xã Ông La (thời Nguyễn đổi thành xã Đức La), huyện Phượng Nhãn xưa, nay thuộc thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Qua các nguồn sử liệu, được biết chùa Vĩnh Nghiêm được mở mang xây dựng từ thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) trên nền móng của một ngôi chùa nhỏ có từ thời Lý (thế kỷ XI-XIII). Trải gần một thiên niên kỷ với nhiều lần trùng tu, tôn tạo công trình kiến trúc hiện nay cơ bản còn lại là sản phẩm của hai triều đại Lê – Nguyễn (thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XX).

Ngoài công trình kiến trúc, chùa Vĩnh Nghiêm còn được xem như một bảo tàng văn hóa Phật giáo Đại thừa khá tiêu biểu ở miền Bắc Việt Nam. Di vật cổ kính ở chùa Vĩnh Nghiêm rất phong phú, đa dạng, mỗi nhóm hiện vật đều xứng đáng xếp thành một bộ sưu tập khá hoàn chỉnh.

– Sưu tập tượng thờ, có hơn một trăm pho được bài trí ở toà Tam bảo, Tổ đệ nhất, Tổ đệ nhị, Khách đường. Bộ tượng ở đây cũng có mấy nhóm như Tượng phật, tượng Tổ, tượng Hậu, tượng Thánh được bài trí theo mô hình chuẩn mực thời Lê – Nguyễn;

– Hệ thống văn bia thời Mạc – Lê Trung hưng – Nguyễn;

– Hệ thống hoành phi – câu đối, đồ thờ, kho kinh sách nhà Phật, kho ván in kinh – sách… tất cả có tới vài nghìn đơn vị hiện vật quý giá. Một trong những di sản văn hóa đặc biệt quý giá ở chùa Vĩnh Nghiêm mà hiếm nơi nào trên đất nước ta còn lưu giữ được là kho ván khắc in. Thực chất đó là những trang sách bằng gỗ mà người xưa trang trọng gọi là mộc thư khố hay mộc bản thư khố.

2. Kho mộc thư ở chùa Vĩnh Nghiêm có tổng số gần ba nghìn bản lẻ, trong đó hầu hết là kinh, sách thuốc, luật giới nhà Phật; số còn lại là trước tác của Tam thế tổ và một số vị cao tăng dòng thiền Trúc Lâm (thơ, phú, nhật ký…) được khắc bản cách đây trên dưới hai trăm năm.

Có thể nói kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm là bảo vật vô giá của quốc gia. Qua kho bảo vật này người đời có thể khai thác lượng thông tin phong phú, đa lĩnh vực như: lịch sử Phật giáo, tư tưởng văn hóa hành đạo, nhập thế của dòng thiền Trúc Lâm, lịch sử nghề khắc in mộc bản, thân thế sự nghiệp một số vị cao tăng có nhiều cống hiến cho sự phát triển nền văn hóa truyền thống dân tộc… Hơn nữa, với sự tài hoa khéo léo của nghệ nhân xưa mỗi mảnh ván khắc xứng đáng là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật để đến hôm nay người đời được ngưỡng vọng và có thêm nguồn tư liệu tìm hiểu nghệ thuật chạm khắc gỗ Việt Nam thời Lê – Nguyễn.

Hiện nay các bản mộc thư được bảo quản trân trọng trong 7 kệ gỗ, trong đó có 2 kệ lớn đặt ở Tiền Đường (chùa Hộ), 4 kệ nhỏ đặt ở Thượng điện (Thiêu hương), 1 kệ nhỏ đặt ở tòa Tổ đệ nhất.

Hai kệ lớn ở Tiền đường với khoảng gần hai nghìn bản ván cơ bản là kho Kinh Hoa Nghiêm, cùng hơn 20 bản của bộ Kinh Di Đà. Bốn kệ ở tòa Thượng điện được sắp xếp lộn xộn gồm nhiều kinh sách khác nhau. Kệ nhỏ ở tòa Tổ đệ nhất có trên hai trăm bản, hầu hết là pho Kinh Đại Thừa.

Các ván in này đều bằng chất liệu gỗ thị, có kích cỡ tương đối đồng đều (trung bình 33x23x2,5cm). Vì đã qua nhiều lần in cho nên các mảnh ván đều có mầu đen bóng bởi bề mặt được phủ một lớp dầu mực in khá dày. Lớp dầu mực này thấm sâu vào ruột gỗ có tác dụng chống thấm nước, ẩm mốc, mối mọt rất hiệu quả. Phần lớp ván in được khắc chữ Hán trên hai mặt, kiểu chữ chân phương, chữ khắc sâu (khoảng 1,5mm) sắc nét và đều khắc ngược (âm bản). Mỗi mặt ván hai trang sách, khắc chạm đúng chuẩn mực theo kiểu đóng sách của người xưa. Biên lan có khung viền 4 lề trang sách gồm 1 đường chỉ to và một đường chỉ nhỏ (người xưa gọi là Văn vũ Biên lan). Bản tâm (hay Bản khẩu) thường khắc dòng chữ cho biết tên sách (Hoa khẩu), thứ tự trang sách. Thượng hạ Bản tâm có Ngư vĩ (Đuôi cá) theo kiểu song Ngư vĩ. Tả hữu, thượng hạBiên lan có Thiên đầu – Địa cước rộng chừng 2,5cm. Nhiều trang được các nghệ nhân xưa khắc đan xen thêm những bức minh họa đường nét tài hoa tinh tế, bố cục chặt chẽ hài hòa xứng đáng là tác phẩm đồ họa trứ danh của mọi thời đại.

Theo dòng lạc khoản khắc ở bài tựa và dòng lạc khoản cuối các cuốn kinh – sách được biết, kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm cơ bản khắc in dưới triều vua Tự Đức, Thành Thái nhà Nguyễn (nửa sau thế kỷ XIX), một số ít được khắc dưới triều vua Cảnh Hưng, nhà Lê (nửa cuối thế kỷ XVIII). Trong tổng số gần ba nghìn bản lẻ thì có ba chục đầu kinh – sách các loại, trong đó có tới 2/3 là Hoa Nghiêm kinh; còn lại là Di đà kinh, Quan Thế âm kinh, Tì Khưu ni giới kinh, Khai thánh chân kinh… và các sách, luật nhà Phật. Xin được thống kê tên một số pho kinh sách tiêu biểu:

1- Hoa Nghiêm kinh

2- Di Đà kinh

3- Quan Thế âm kinh

4- Khai thánh chân kinh

5- Đại thừa chỉ quán

6- Tỳ Kheo ni giới kinh

7- Tịnh độ sám nguyện

8- Thượng đế khuyến thế văn

9- Sa Di ni uy nghi

10- Bản nguyện chân kinh

11- Thiền tông bản hạnh

12- Thần du phương ký

13- Giới thực ngưu nhục

14- Giới thập đổ điều

15- Sa Di ni giới kinh

16- Khuyến thế lương ngôn

17- Kết hữu phàm tú huấn

18- Thiếu thất phú

19- Kim khoa ngọc luật

20- Tây phương mỹ nhân truyền

21- Yên Tử nhật trình

22- Thái vi công quá cách

23- An thai phôi sinh phương

24- Thiền tịch phú

25- Thích Ca giáng đản truyền

26- Quá dâm thuyết

27- Phụ kinh nghiệm cấp cứu phương

28- Văn Xương kiến thế văn

29- Văn Xương đế quân giới dâm văn

30- Đáp tịnh độ vấn tuỳ đáp vấn

31- Thái thượng cảm ứng biên

32- Đế quân cứu thế văn

3. Do không có điều kiện khảo cứu toàn bộ nội dung các kho kinh sách trên một cách kỹ lưỡng nên chúng tôi chỉ lược thuật nội dung của một số pho tiêu biểu.

– Hoa Nghiêm kinh là tên gọi tắt của Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Đại phương quảng là pháp sở chứng. Đức Phật là người đã năng chứng, đã chứng được các lý của Đại phương quảng. Vạn hạnh của nhân vị như hoa, đem hoa này trang nghiêm cho quả đất, cho nên gọi là Hoa Nghiêm. Còn muôn đức như hoa của đất, quả của phật, đem hoa này trang nghiêm cho phép pháp thân cho nên cũng gọi là Hoa Nghiêm. Giáo lý của Hoa Nghiêm kinh là viên đốn. Ai thụ trì (nhận và giữ) được Hoa Nghiêm kinh thì sẽ vào được cảnh giới tốt đẹp của Phật, mau chóng đắc đạo thành Phật.

– Di Đà kinh tên gọi tắt của Phật thuyết A Di Đà kinh.Di Đà là tên gọi tắt của Phật A Di Đà. Di Đà kinh của Phật Tịnh độ tông mà Đức Phật thuyết để Phổ độ chúng sinh. Nội dung tán dương công đức vô lượng vô biên của ngài, khuyến khích chúng sinh nên chấp trì xưng tụng danh hiệu A Di Đà nhất tâm bất loạn. Ai mà niệm danh hiệu ngài không sao nhãng thì lúc lâm chung được ngài rước về cõi cực lạc mà hưởng sự thanh nhàn, tĩnh lự.

– Bản nguyện chân kinh: Bản có nghĩa là “căn” tức thệ nguyện căn bản. Tâm của Bồ tát rất quảng đại, thệ nguyện cùng vô lượng. Tụng niệm kinh này để sở đắc điều đó.

– Quán thế âm kinh: Quán thế âm ngài là người có một mặt, ngàn tay, ngàn mắt, 108 hồng danh, ngài ngự trên đền Bổ Đà Ca Sơn, xứ Lạp Tát, Tây Tạng. Nếu ai thờ ngài ắt sẽ được phúc đức, ai cầu nguyện và niệm tưởng ngài thì được ngài che chở cứu nạn.

– Tì kheo ni giới kinh: Bậc Tì Kheo phải giữ đầy đủ 348 giới cấm. Trong luật 348 điều ngăn cấm được phân ra làm 7 khoản:

+ Ba la di pháp có 8 giới: dâm, đạo (trộm cắp), sát (sát sinh), vọng ngữ (điêu ngoa – hóng hớt), vì khiêu dâm mà đụng cọ với đàn ông từ nách đến gối, vì dâm dục mà hẹn hò cầm tay đàn ông ở chỗ vắng vẻ, giấu tội cho Tì kheo ni phạm đại giới, theo Tì kheo tăng phạm giới và không sám hối.

+ Tăng tàn (làm tổn hại sư tăng), có 17 giới cấm:

+ Xả đoa, có 30 giới cấm

+ Ba dật đề, có 178 giới cấm

+ Bá chúng học pháp, 100 giới cấm

+ Đề xa ni, 8 giới cấm

+ Thất diệt tránh, 7 giới cấm

– Sa Di ni giới kinh, có 10 điều ngăn cấm: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không điêu ngoa – hỗn xược, không rượu chè, không trang điểm, không làm gì gợi tính dâm dục, không nằm ghế cao, không nằm giường rộng, không ăn quá Ngọ, không ham tiền bạc – tiêu sài.

Sa Di ni có hai bậc: Ô Sa di là hạng từ 7 đến 12 tuổi, chủ yếu chăm sóc trông nom thóc lúa hoa quả nhà chùa; ứng Pháp Sa di là hạng từ 13 đến 19 tuổi, phải biết phụng sự các nhà sư và phục dịch các công việc nhà chùa.

– Thiền tông bản hạnh, Thiền tông là Phật phái chuyên tham thiền nhập định để đắc được Phật tính, Phật tâm, cho nên còn gọi là phái Tâm tông. Phái này không lập văn tự, thầy trò truyền tâm pháp cho nhau bằng cách di chuyển ý nghĩ, tư tưởng qua thiền định.

– Sa Di ni uy nghi (Nghi thức bắt buộc đối với Sa Di ni)

– Giới thực ngưu nhục (Những lời khuyên răn không ăn thịt trâu)

– Giới đổ thập điều (Mười điều khuyên răn không đánh bạc)

– Quá dâm thuyết (Lời khuyên không được hoang dâm vô độ)

– Thái vi công quá cách (Cách chế biến đồ ăn trong nhà chùa)

– An thai, thôi sinh phương (Phương thuốc an thai, thôi sinh)

– Khuyến thế lương ngôn (Lời khuyên làm việc thiện)

– Kết hữu phàm tứ huấn (Bốn lời dạy trong việc kết bạn)

– Phụ kinh nghiệm cấp cứu thương (Kinh nghiệm cấp cứu bệnh phụ nữ)

– Yên Tử nhật trình (Ghi hành trình các sư tổ lên Yên Tử)

– Thiền tịch phú (Bài phú về việc tĩnh dưỡng tu thiền)

– Thích Ca giáng đản truyền (Lời truyền ngày sinh của đức Phật Thích Ca).

– v.v…

Ngoài kho mộc thư trên, chùa Vĩnh Nghiêm còn có một số pho kinh – sách quý giá khác, như cuốn Khóa hư lục mà theo lạc khoản thì được tàng bản, in ấn tại chùa Vĩnh Nghiêm dưới triều vua Tự Đức nhà Nguyễn, thế nhưng không hiểu vì sao hiện nay không còn bóng dáng mảnh ván in nào.

4. Với giá trị văn hóa đặc biệt như trên, kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm cần được ưu tiên bảo tồn như những bảo vật quốc gia. Trên thực tế nó chưa được sự quan tâm hợp lý. Cách đây không lâu, để phục vụ đề tài nghiên cứu về trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm, Bảo tàng Bắc Giang có tổ chức hai lần kiểm kê để thống kê đầu kinh – sách nên đã đánh thức giấc ngủ im lìm từ hàng trăm năm nay của kho mộc thư quý giá này. Nhưng hiện tại việc bảo quản hiện vật vẫn hoàn toàn do nhà chùa đảm nhiệm, cơ quan chuyên môn ngành văn hóa chưa có kế hoạch, phương án bảo tồn một cách khoa học kho mộc thư cũng như các di sản văn hóa chùa Vĩnh Nghiêm. Đã mấy trăm năm tồn tại, với thời tiết khí hậu bất lợi như vùng chiêm trũng Trí Yên nên một số bản mộc thư đã bị nhiễm nấm mốc, mục sứt… cần được quan tâm khắc phục.

NGUYỄN VĂN PHONG (nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 5 (72) 2005)

BÌNH LUẬN

Nội dung bình luận
Vui lòng nhập tên