Tháng Tư trăng tròn lại sắp trở về với người con Phật. Lòng người cảm thấy nao nao nhớ lại sự kiện Đản sanh của Đức Phật.
Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc;
Ba nghìn thế giới đón Như Lai.
Cả nhân loại reo vui đón nhận bức thông điệp cứu khổ của Ngài. Thông điệp của từ bi và trí tuệ như mưa rào làm tan biến sự nóng bức của thời tiết tháng Tư, như luồng gió mát thổi vào tâm thức khô cằn của vô lượng chúng sanh.
Từ bi là nội dung thứ nhất của bức thông điệp, chính là chất liệu sống của con người có khả năng làm tiêu tan bao phẩn nộ, sân hận, não hại của tự thân và làm con người thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Tất cả mọi người đều có đức tánh từ bi, biết chia sẻ, sẵn sàng an ủi, thông cảm, quan tâm và chăm sóc. Tuy nhiên, lòng từ bi trong con người được phát khởi với sự quan tâm và yêu thương người khác là bắt nguồn từ sự chăm sóc và thương yêu chính mình. Tục ngữ nhân gian cũng có câu: “Thương người như thể thương thân”. Thật vậy, chúng ta có thể hiểu người khác khi ta thật sự hiểu được chính mình. Chúng ta biết điều gì tốt nhất đối với người khác cũng như ta biết cái gì tốt nhất cho chính ta. Vì vậy trong đạo Phật, sự phát triển tâm linh của riêng mình sẽ nở rộ một cách tự nhiên trong sự quan tâm đến sự lợi lạc của người khác. Cuộc đời của Đức Phật đã minh chứng rất rõ điều này. Khi còn là thái tữ Sĩ Đạt Đa, Ngài thấu hiểu nỗi khổ của kiếp người trước cảnh sanh, lão, bệnh, tử. Ngài tự thân đi tìm con đường hạnh phúc cho mình, để sau khi thành đạo Ngài mang lại lợi ích đó cho toàn nhân loại.
Ngài đã từng dạy: “Không có giai cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, cũng không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ” hoặc Ngài dạy trong kinh Pháp Cú kệ số 5:
“Hận thù diệt hận thù
Đời này không thể có
Từ bi diệt hận thù
Là định luật nghìn thu.”
Đức Phật muốn chỉ cho mọi người thấy lòng yêu thương ban rải không nên có sự phân biệt giai cấp, thân sơ và ngay cả hận thù cũng không nên tồn tại. Vì có được như vậy con người sẽ tự thấy con đường an vui cho chính mình.
Ngài còn ban hành giới luật không sát sinh, kêu gọi mọi người chớ có tự tay mình giết hay bảo người khác giết. Ngài yêu cầu phải trân quý giá trị thiêng liêng của sự sống, phải bảo vệ sự sống đối với tất cả mọi loài chúng sinh. Ngài phản đối các cuộc tế lễ của đạo Bà La Môn, phi lợi ích, đem những con vật xấu số ra cúng tế thần linh. Ngài cũng lên án những thú vui săn bắn của vua chúa. Và lẽ tất nhiên, Ngài không đồng thuận mọi hình thức chiến tranh bạo động, Ngài đề xướng tư tưởng từ bi bất bạo động.
Ðức Thế Tôn chú trọng đến việc tu tập tâm Từ bi. Trong Tăng Chi IV trang 264 – 265 đề cập lời Ngài dạy, “Cúng dường cho Phật và Tăng chúng thì có công đức rất lớn. Nhưng có công đức lớn hơn là xây một tu viện cho Tăng chúng ăn ở và tu học. Có công đức lớn hơn xây dựng tu viện là thọ Tam quy, Phật, Pháp, Tăng. Có công đức hơn thọ Tam quy là giữ năm giới. Có công đức hơn giữ năm giới là giữ tâm niệm từ bi, dù chỉ là trong giây phút. Nhưng có công đức hơn tất cả là quan sát sâu sắc đạo lý vô thường của sự vật”, nghĩa là công đức giữ tâm niệm từ bi còn lớn hơn cả việc xây tu viện cho Tăng chúng, lớn hơn cả việc cúng dường cho Đức Phật và chư Tăng. Nếu hành trì như kinh Từ Bi chỉ dạy, nếu suốt đời khi đi đứng nằm ngồi giữ niệm từ bi, thương xót đến mọi người, mọi loài chúng sinh, thì công đức sẽ vô cùng lớn lao, khó có thể nghĩ bàn.
Tâm từ bi, ở mức độ cơ bản chính là tư tưởng và hành động trân quý sự sống, bảo vệ sự sống và không tàn hại sự sống. Từ con người cho đến loài cỏ cây, sông nước, bầu không khí cũng cần phải được săn sóc và bảo vệ, vì tất cả đều có sự sống hay đều có sự liên hệ hỗ tương với nhau. Bảo vệ môi trường sống, cũng tức là bảo vệ sự sống.
Đức Phật luôn trải lòng từ bi bình đẳng đến cho muôn loài, đến tất cả mọi dạng sống trên trái đất, dù lớn hay nhỏ, ở gần hay ở xa, mắt thấy được hay không thấy được, đã sinh hay sắp sinh, như Ngài đã nói trong kinh Từ Bi thuộc Kinh tạng Pāli: “Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi; Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh; Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn”.
đã hơn 25 thế kỷ trôi qua, suối nguồn từ bi bình đẳng từ thông điệp tháng Tư vẫn tuôn chảy đến ngày nay, vẫn ngày đêm lan tỏa để thức tỉnh, giác ngộ cho nhân loại đang chìm đắm trong khổ đau, thù hận và vô minh, dù cho mọi sự vật đều đổi thay.
Suối nguồn từ bi bình đẳng có thể tuôn chảy không gián đoạn qua dòng thời gian, đó cũng nhờ vào sự hiện hữu của trí tuệ. Trí tuệ là nội dung thứ hai của bức thông điệp mà Đức Thế Tôn gửi cho con người nhằm giúp nhân sinh hiểu được sự thật sự vận hành của các pháp, hiểu được kiếp sống nhân loại, hiểu được khổ – nguyên nhân của khổ – chấm dứt khổ và con đường chấm dứt khổ. Nói theo cách khác, trí tuệ làm cho tâm cởi mở hơn, biết lắng nghe những quan điểm, hiểu rõ nỗi khổ niềm đau của người khác, hình thành hiểu biết đúng đắn, tránh xa tâm lượng hẹp hòi, niềm tin mù quáng; dính mắc trong thành kiến hay phe phái.
Từ bi – Trí tuệ thật sự là hai chất liệu đặc thù không thể thiếu được trong cuộc sống của mỗi con người, là hai yếu tố luôn cùng vận hành trong cùng cuộc đời của mỗi chúng ta nhằm kiến tạo cõi “Cực lạc” tại nhân gian.
Mỗi chúng ta, cuộc đời có tươi đẹp hay không là tùy vào khả năng nhận thức dựa trên nền tảng của Từ bi – Trí tuệ, nên biết mình biết người, biết hoàn cảnh xung quanh, quán xét trên tinh thần công bằng vô tư thì không điều gì làm ta nhụt chí hay nản lòng, vì bản chất của sự vật là không nhiễm ô nhưng do tâm tưởng, tâm tạo tác của con người mà nhìn nhận sự vật trở nên nhuốm màu, thành ra muôn hình vạn trạng, có tướng thiện ác, có tướng sai biệt, có nhân ngã bỉ thử, có Phật có chúng sanh, có tướng yêu ghét khen chê, v.v…
Một số tôn giáo tin rằng từ bi hay tình thương là phẩm chất tinh thần quan trọng nhất nhưng họ đã không thành công về việc phát triển trí tuệ, kết quả chỉ là một người khờ tốt bụng, một người tử tế có chút ít hiểu biết hoặc không biết gì cả. Những hệ thống tư tưởng khác như khoa học, tin rằng trí tuệ có thể tốt nhất để phát triển, trong khi tất cả mọi tình cảm kể cả từ bi bị loại ra. Hậu quả của kiểu suy nghĩ này mà khoa học có khuynh hướng bận tâm về kết quả mà lãng quên đi là khoa học phải phục vụ con người chứ không phải để kiểm soát và khống chế con người. Nói khác hơn, làm cách nào các nhà khoa học mặc cả khả năng của mình để phát triển bom nguyên tử, chiến tranh vi trùng, v.v… Tôn giáo luôn xem lý trí và trí tuệ như là kẻ thù của tình cảm cũng như yêu thương và lòng trung thành. Khoa học luôn xem tình cảm như yêu thương và trung thành là kẻ thù của lý trí và tính khách quan. Và dĩ nhiên, hễ khoa học phát triển thì tôn giáo suy thoái. Mặt khác, Phật giáo dạy rằng để trở thành một người hoàn hảo phải phát triển cả trí tuệ và lòng từ bi. Lời dạy không phải là giáo điều mà dựa vào kinh nghiệm, Phật giáo không có gì phải e ngại khoa học cả.
Người làm được điều này chắc chắn là khôn ngoan và cuối cùng đến gần với hiểu biết chân chính. Con đường của người Phật tử đòi hỏi phải có lòng can đảm, kiên nhẫn, linh động và thông minh.
Trăng tròn tháng Tư, chúng ta lại cảm nhận mùa Phật Đản Phật lịch 2562 với niềm hoan hỉ cố gắng thực hành theo bức thông điệp mà Thế Tôn gửi gắm làm phương châm định hướng cho cuộc đời tốt đẹp hơn.
TT. TS. Thích Đức Trường (nguồn: Tuyển tập Tri thức Phật giáo số 23, 2018)