ảnh Hạo Nhiên (1999)
KIẾN TRÍ TỔNG QUAN
Chùa tọa hướng Đông Bắc, trước chùa có chiếc cổng gạch tọa theo hướng chùa. Cổng được xây dưới đời Thiền sư Như Lộc làm trụ trì nên khá cũ kỹ. Trên mặt trước ngõ có câu liễn cẩn miểng bát, mỗi bên 7 chữ nhưng chỉ còn vế trước 4 chữ, vế sau 5 chữ. Cả hai vế mất trắng 5 chữ không còn dấu vết.
* Trang 225 *
Tam quan chùa Bình An (cũ).
ảnh Hạo Nhiên (1999)
東 海 波 含 。 。 。
南 山 雲 繞 護 。 。3
3 Trong lần khảo sát vào tháng 9 năm 2011, Hòa thượng Thích Đồng Chơn cho chúng tôi biết nguyên văn của hai câu đối như sau:
東 海 波 含 潮 梵 宇
南 山 雲 繞 護 禪 門
Phiên âm:
Đông hải ba hàm triều phạm vũ,
Nam sơn vân nhiễu hộ Thiền môn.
* Trang 226 *
Nam sơn vân nhiễu . .
Tôi đề nghị điền thế như sau:
東 海 波 含 宣 梵 偈
南 山 雲 繞 護 禪 門
Phiên âm:
Đông hải ba hàm tuyên phạm kệ,
Nam sơn vân nhiễu hộ Thiền môn.
Dịch nghĩa:
Sóng nơi Đông hải vang lời Phật,
Mây tự Nam sơn lợp cửa Thiền.
Qua khỏi ngõ, cách một vuông sân khá rộng thì tới chánh điện.
Chánh điện xây gạch lợp ngói, có cổ lầu, dài 8m, rộng 6m, diện tích 48m2, cao 6m, trên nóc đắp lưỡng long chầu chữ A, hai bên có lầu chuông lầu trống, cổ lầu mặt tiền phân 3 ô.
Ô giữa đắp nổi 4 chữ:
大 雄 寶 殿
Đại Hùng Bảo Điện
(Điện báu đại hùng)
Ô bên tả đắp nổi 3 chữ:
門 鎮 靜
Môn Trấn Tĩnh
(Sơn môn trấn tĩnh)
Dịch nghĩa: Chùa yên ổn, dẫu có điều bất trắc xảy ra cũng được làm cho bình lặng.
Ô bên hữu đắp nổi 3 chữ:
Sóng nơi Đông hải chầu cửa Phật,
Mây tự Nam sơn hộ nhà Thiền. (Như Tịnh chú).
* Trang 227 *
Ấn Trùng Quang
(Tổ ấn trùng quang)
Ấn Tổ thêm sáng
Dưới cổ lầu trên mày cửa có đắp hiệu chùa bằng chữ Quốc ngữ và năm trùng tu (1963).
Trên bốn mặt trụ lầu chuông lầu trống có đắp liễn. Câu liễn giữa:
貝 葉 西 來 石 室 玄 文 光 慧 日
籐 花 東 往 琅 琀 秘 典 播 香 風
Phiên âm:
Bối diệp Tây lai, thạch thất huyền văn quang huệ nhật,
Đằng hoa Đông vãng, lang hàm bí điển bá hương phong.
Dịch nghĩa:
Kinh Phật hướng Tây sang, nhà đá văn huyền, treo cao vầng tuệ sáng,
Hoa Đằng phương Đông tới, hòm ngọc điển mật, rải khắp gió hương thơm.
Câu liễn biên:
忘 梵 閣 捧 金 經 想 若 登 山 採 寶
嗔 劫 浮 遊 塵 網 渾 如 入 海 求 珠
Phiên âm:
Vong Phạm các bổng, kim kinh tưởng nhược đăng sơn thái bảo,
Sân kiếp phù du, trần võng hồn như nhập hải cầu châu.
Dịch nghĩa:
Quên chùa thờ Phật, năng niệm kinh vàng, tưởng như lên non nhặt ngọc,
Giận kiếp nổi trôi, dạo khắp lưới trần, nào khác xuống biển mò châu!
Cửa vào chánh điện có 3 gian đều có cánh cửa Gõ kiểu bồn khoa.
* Trang 228 *
Chánh điện chùa Bình An hiện nay.
ảnh Như Tịnh (2011)
Bên trong điện, bàn Phật đặt ở gian giữa, trên tôn trí tượng Đức Bổn Sư cùng các tượng Phật thánh khác, hầu hết đều bằng xi măng. Hai bên bàn Phật có câu liễn được đắp trên mặt hai trụ vôi.
花 開 九 品 出 真 香 道 源 元 始
樹 下 六 年 完 正 覺 世 界 獨 尊
Phiên âm:
Hoa khai cửu phẩm, xuất chơn hương, đạo nguyên nguyên thủy,
Thọ hạ lục niên, hoàn chánh giác, thế giới độc tôn.
Dịch nghĩa:
Hoa sen nở chín phẩm, tỏa hương chân thật, nguồn đạo bắt đầu.
Ngồi dưới cây Bồ đề sáu năm thì giác ngộ hoàn toàn được thế giới tôn xưng là Bậc duy nhất.
* Trang 229 *
Tổ đường chùa Bình An hiện nay.
ảnh Như Tịnh (2011)
* Trang 230 *
Tượng Địa Tạng bằng đá xưa tại chùa Bình An.
ảnh Như Tịnh (2011)
Tháp chư Tổ đều ở trong vườn chùa.
CHÙA BÌNH AN TỪ TRIỆU KIẾN ĐẾN ĐẠI TRÙNG TU
Chùa Bình An được Thiền sư Ấn Lễ Chí Nhân, đời pháp 39 kệ phái Minh Hải Pháp Bảo, đệ tử Thiền sư Chương Nghĩa Thanh Nguyên viện chủ chùa Sơn Long xuống lập rồi khai sơn vào khoảng thập niên đầu đời Tự Đức (1851-1861). Ban đầu chùa gỗ, lợp tranh, tọa hướng Nam.
* Trang 231 *
Sang đời Thiền sư Thị Châu Từ Hàng làm trụ trì thì tiểu tu vào năm 1956, bỏ ngói vảy lợp ngói Phú Phong. Đến năm 1963, xây lại toàn bộ tự viện mà quy cách và diện mạo hiện còn cho tới ngày nay.
ảnh Như Tịnh (2011)
Tháp Ngài nguyên ở ngoại vi chùa. Mãi đến thập niên 60 mới được trụ trì Thị Châu Từ Hàng cải táng về vườn chùa, nhập tháp phía tả chánh điện.
* Trang 232 *
臨 濟 三 十 九 世 開 山 平 安 寺 諱 上 印 下 禮 字 祖 智 號 志 仁 大 師 蓮 座
生 辛 巳 年 昧 月 日 時
寂 辛 醜 年 四 月 初 九 日
Phiên âm:
Lâm Tế Tam Thập Cửu Thế Khai Sơn Bình An Tự Huý thượng ẤN hạ LỄ Tự TỔ TRÍ Hiệu CHÍ NHÂN Đại Sư Liên Tòa.
Sinh Tân Tỵ niên muội nguyệt nhật thời.
Tịch Tân Sửu niên tứ nguyệt sơ cửu nhật.
Dịch nghĩa:
Tòa sen của Đại sư Pháp danh Ấn Lễ, Pháp tự Tổ Trí, Pháp hiệu Chí Nhân, đời pháp 39 tông Lâm Tế, khai sơn chùa Bình An.
Sinh năm Tân Tỵ (1761), chưa rõ tháng ngày giờ.
Tịch năm Tân Sửu (1841) tháng 4 ngày 9.
2. Trụ trì: Sư bà Ấn Ý hiệu Chí Hương, đời pháp 39 kệ phái Minh Hải Pháp Bảo. Chưa rõ thân thế và hành trạng. Lâu nay người trong chùa tôn bà làm Đệ nhị tổ nhưng căn cứ theo long vị hiện còn thì chỉ thấy nói rằng bà có tu tại hai chùa Khánh Long và Phước Quang ở Quảng Ngãi (Cẩm Thành là mỹ từ trỏ tỉnh thành Quảng Ngãi), đã thọ giới Tỳ kheo Ni, được gởi thờ tại chùa Bình An. Trên long vị còn có tên một người nữa là Tống Phước Hảo ở phủ Thừa Thiên, sinh năm Kỷ Tỵ đến trưởng thành thì chết cũng được gởi thờ tại chùa Bình An. Chưa rõ quan hệ giữa Tống Phước Hảo với Sư bà và cũng chưa rõ ai gởi long vị hai người nêu trên thờ tại chùa Bình An. Long vị viết:
錦 城 慶 隆 福 光 二 寺 受 比 丘 尼 諱 印 意 寺 志 香 之 靈 位 寄 托 祀 平 安 寺 戊 申 十 月 十 五 日 醜 刻忌
Phiên âm:
Cẩm Thành Khánh Long Phước Quang Nhị Tự Thọ Tỳ Kheo Ni Húy ẤN Ý Tự CHÍ HƯƠNG Chi Linh Vị Ký Thác Tự Bình An Tự Mậu Thân Thập Nguyệt Thập Ngũ Nhật Sửu Khắc Kỵ.
* Trang 233 *
Linh vị Tỳ kheo Ni Pháp danh Ấn Ý, Pháp tự Chí Hương, từng tu tại hai chùa Khánh Long, Phước Quang ở tỉnh thành Quảng Ngãi, được gởi thờ tại chùa Bình An. Mất giờ Sửu ngày Rằm tháng 10 năm Mậu Thân (1908).
ảnh Như Tịnh (2011)
* Trang 234 *
Long vị thờ tại chùa, lòng vị ghi:
臨 濟 四 十 一 世 平 安 寺 住 持 如 志? 號 弘 正 曰 爽 大 師 覺 靈F 座
Phiên âm:
Lâm Tế Tứ Thập Nhất Thế Bình An Tự Trụ Trì NHƯ CHÍ Hiệu HOẰNG CHÁNH Viết SẢNG Đại Sư Giác Linh Tòa.
Dịch nghĩa:
Nơi ngự của Giác linh Đại sư Pháp danh Như Chí, Pháp hiệu Hoằng Chánh, thụy là Sảng, đ?i pháp 41 tông Lâm Tế làm trụ trì chùa Bình An.
Hòa thượng Thị Châu Từ Hàng.
ảnh Như Tịnh (2011)
4. Trụ trì: Thiền sư Như Lộc hiệu Tường Vân, đời pháp 41 kệ phái Minh Hải Pháp Bảo. Ngài đã đổi hướng chùa sang Đông Bắc, thay tranh lợp ngói vảy. Chùa được làm từ tranh qua ngói bắt đầu từ đời của Sư.
Không thấy long vị4
5. Trụ trì: Thiền sư Thị Châu, tự Giác Viên, hiệu Từ Hàng, đời pháp 42 kệ phái Minh Hải Pháp Bảo, đệ tử Hòa thượng Như Huệ Hoằng Thông trụ trì chùa Bạch Sa nội thành Quy Nhơn.
Ngài tộc tánh họ Dương
* Trang 235 *
Trong chiến tranh Việt Pháp (1945-1954), chùa nằm trong vùng bị quân đội Pháp càn quét nhiều lần nên có bị hư hao. Sau chiến tranh, năm 1956, Sư sửa sang lại, bỏ ngói vảy, lợp ngói Phú Phong, đồng thời chuẩn bị tài vật để đại trùng tu. Năm 1963, Sư cất lại toàn bộ tự viện mà quy mô cho tới ngày nay.
Ngài sống đời sống ẩn tu, không tham dự vào thế sự. Ngài đã chứng minh khai sơn các chùa khuôn hội Hưng Thạnh; chùa Từ Vân tại phường Nhơn Bình. Ngài trùng tu các chùa như: chùa Bình An, chùa Hưng Phước; chùa Kim An tại xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn v.v….
Ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Dần (1998), Sư viên tịch tại chùa, thế thọ 86 tuổi dương tức 87 tuổi âm. Nhập tháp Ngài trong phạm vi chùa.
Long vị thờ tại chùa, lòng vị ghi:
臨 濟 四 十 二 世 重 建 平 安 寺 諱 是 珠 號 慈 航 上 座 覺 靈 蓮 座
壬 子 年 昧 月 日 辰 來
戊 寅 年 十 二 月 二 十 六 日 去
Phiên âm:
Lâm Tế Tứ Thập Nhị Thế Trùng Kiến Bình An Tự Húy THỊ CHÂU Hiệu TỪ HÀNG Thượng Tọa Giác Linh Liên Tòa.
Nhâm Tý niên muội nguyệt nhật thời lai.
Mậu Dần niên thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật khứ.
Dịch nghĩa:
Tòa sen nơi ngự của Giác linh Thượng tọa pháp danh Thị Châu, pháp hiệu Từ Hàng, đời pháp thứ 42 tông Lâm Tế, xây cất lại trên cơ sở cũ chùa Bình An.
Sinh năm Nhâm Tý (1912) chưa rõ tháng ngày giờ.
Tịch năm Mậu Dần (1998) tháng Chạp ngày 26.
Sinh thời, Thượng tọa thu nhiều đệ tử, nuôi cho ăn học thành tài.
* Trang 236 *
Hòa thượng Đồng Chơn Minh Chiếu.
ảnh Như Tịnh (2011)
Sau năm 1975 đa số hoàn tục, chỉ còn vài vị, trong đó có Đại đức Thích Đồng Chơn kế vị Thượng tọa làm trụ trì Bình An tự.
6. Trụ trì: Thiền sư Đồng Chơn, tự Thông Thiện, hiệu Minh Chiếu, đời pháp 43 kệ phái Minh Hải Pháp Bảo.
Sư thế danh Bùi Văn Bảy, sinh năm 1948 tại thôn Trung Tín, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước. Con ông Bùi Tân và bà Phạm Thị Hội, đều là Phật tử thuần thành.
Sau khi được cha mẹ cho phép, ngày 17 tháng 11 năm 1959, cha Sư đưa Sư đến chùa Bình An thỉnh cầu và được Thượng tọa Thị Châu Từ Hàng thế độ. Năm 1968 thọ Đại giới tại giới đàn mở tại chùa Long Khánh do Hòa thượng Phúc Hộ chùa Từ Quang, Phú Yên làm Đường đầu. Năm 1970 học Phật học chuyên khoa Trung đẳng khóa I tại Phật học viện Phước Huệ đặt tại chùa Thập Tháp, An Nhơn. Năm 1973 tốt nghiệp. Về văn hóa, Sư đã học hết lớp 12, có bằng tú tài.
Năm 1992, trường Cơ bản Phật học tỉnh Bình Định mở khóa đầu tại Tu viện Nguyên Thiều, Sư được nhà trường mời làm Giáo thọ, dạy luật cho Tăng ni sinh tại trường từ ấy đến nay.
Năm 1998, sau khi bổn sư quy tịch, Sư chính thức làm trụ trì Bình An tự. Sư chuyên tâm vào việc giáo dục nhất là bộ môn Luật học trong Phật giáo. Giới đức khiêm ưu, Sư thường được cung thỉnh vào các chức vị tại các giới đàn trong tỉnh để truyền trao giới pháp cho các thế hệ tăng sĩ kế thừa.
Đệ tử của Sư có nhiều vị đã ra đảm đang các công tác Phật sự
* Trang 237 *
Chú thích:
Chùa Bình An được Hòa thượng Thích Đồng Chơn tiến hành đại trùng tu từ năm 2007 đến năm 2011 hoàn tất. Kiến trúc mới của chùa theo mô hình một tầng lầu và một tầng trệt. Tầng lầu làm Chánh điện và tầng trệt làm nhà Giảng.
Mặt tiền chùa Bình An mới trùng tu.
(ảnh Như Tịnh 2011)
* Trang 238 *
(Lộc Xuyên Đặng Quý Địch. 2012. Những Ngôi Chùa Tiêu Biểu Trong tỉnh Bình Định. NXB Đà Nẵng.)
nguồn: vnbet.vn